Trường Sa – quần đảo rộng lớn với hơn 100 đảo nổi và bãi đá ngầm nằm ở vị trí chiến lược đặc biệt.
Thời điểm cuối cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước, tại quần đảo Trường Sa chỉ 11 đảo có người ở. Quân đội của Đài Loan (Trung Quốc) chiếm giữ Ba Bình; Philippines chiếm giữ Thị Tứ, Vĩnh Viễn, Bến Lạc, Nam Côn, Song Tử Đông.
Chính quyền Việt Nam Cộng hòa đóng giữ 5 đảo gồm: Nam Yết, Trường Sa, Sơn Ca, Sinh Tồn và Song Tử Tây. Đảo Nam Yết là nơi đặt Sở Chỉ huy trung tâm.
Đại tướng Võ Nguyên Giáp đã sớm nhận định: “Vì quần đảo Trường Sa thuộc chủ quyền của Việt Nam và có vị trí chiến lược nên cần tổ chức giải phóng kịp thời phần đất này. Nếu chậm, để quân đội nước khác xâm chiếm, tình hình sẽ rất phức tạp… Theo thăm dò, triển vọng ở đây có dự trữ dầu lửa lớn. Có thể thấy biển và đại dương sẽ là nguồn tài nguyên chủ yếu của nhân loại kể từ thế kỷ 21”.
Đại tướng Võ Nguyên Giáp cũng gọi đây là “một sự kiện đặc biệt diễn ra ngoài kế hoạch chiến lược ban đầu”.
Dưới sự chỉ đạo của Quân ủy Trung ương, Bộ Tư lệnh Quân khu 5 và Quân chủng Hải quân bắt đầu gấp rút lên kế hoạch.
Ngày 4/4/1975, mật điện số 990B của Đại tướng Võ Nguyên Giáp được phát đi, yêu cầu “bí mật, thần tốc, táo bạo, chắc thắng”.
Các tàu vận tải quân sự 673, 674, 675 cải trang thành tàu cá nước ngoài lặng lẽ rời cảng Đà Nẵng. Trên tàu, gần 300 cán bộ, chiến sĩ thuộc các đơn vị đặc công, bộ binh, pháo binh được hợp thành Đoàn C75, do Trung tá Mai Năng chỉ huy.